Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007

Vì lý do kỷ thuật mà cũng vì bận rộn cuối năm nữa hehe, blog chia sẻ thông tin dành cho các bạn yêu thú vật playwithanimal.blogspot.com tạm ngừng trong giây lát, hẹn sớm gặp lại các bạn.

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2007

Cá ống ma - The ghost pipefish



Tên khoa học : Solenostomidae

Thật khó mà xác định được đâu là loài cá kỳ lạ và ngộ nghĩnh nhất của rặng đá ngầm, nhưng chắc chắn rằng cá ống ma được xếp vào hàng topten những loài cá lạ. Thân mỏng nhưng đầu đồ sộ và vây to làm cho chúng nhìn bề ngoài chẳng giống cá tí nào. Rất khó phát hiện ra nhờ vào biệt tài ngụy trang của chúng.

Là một loài cá nhỏ với cái mỏm rất dài, vây lớn, có 2 vây lưng, thân nhỏ được bao phủ bởi những mảng sừng. Cá trưởng thành dài khoảng 15cm.


Hàm của chúng biến thành một cái mỏm dạng ống thon dài và tận cùng là một cái miệng không có răng. Để ăn mồi, chúng tạo ra một sự giảm áp trong cái mõm ống, rồi chúng bất thình lình mở miệng để hút con mồi vào (như tất cả các loại Syngnathiformes).


Cá mái to hơn cá trống, có vây bụng tạo thành một cái túi để dành cho việc ấp trứng. Đây là một trong số ít trường hợp mà sự chăm sóc của cha mẹ thuộc về giống cái. Đa số trong các loài cá thì con trống lãnh nhiệm vụ chăm trứng. Hình trên mô tả chi tiết vây bụng của một cô cá mái Solenostomus Paradoxus với trứng nằm bên trong có thể được nhìn thấy.

Sinh thái

Thường thấy ở những vung nước nông ven biển, trong phá, vịnh và những rặng đá ngầm sau. Khi chưa trưởng thành, chúng sống như một phiêu sinh vật một thời gian rất dài. Sau khi đã trưởng thành, chúng an cư tại khu vực tầng đáy thành từng cặp. Chúng ăn những loài giáp xác nhỏ, hút xuyên qua cái miệng hình ống và nuốt.


Một con Solenostomus Paradoxus còn nhỏ vừa qua giai đoạn ấu nhi, đang tập bơi bên cạnh con trưởng thành.

Gần giống với syngnathids, nhưng chỉ có solenostomid là có vây lớn.


Thường thì chúng bơi thành cặp, con mái to hơn con trống, cả hai thong thả lượn lờ với cái đầu chúc xuống mà thoạt nhìn bạn sẽ có cảm tưởng như chúng trôi lửng lơ theo dòng nước.

Mặc dù được nhiều người biết đến với cái tên cá ống ma, sinh vật mỹ miều này không thuộc họ Syngnathidae. Tuy nhiên, chúng là người anh em gần và được xếp vào họ Solenostomidae, với một giống duy nhất Solenostomus và có khoảng chừng 6 loài :

Cá ống ma bông (Solenostomus paradoxus)
Cá ống ma đại (Solenostomus cyanopterus)
Cá ống ma xù (Solenostomus paegnius)
Cá ống ma Halimeda (Solenostomus sp.)
Cá ống ma đuôi dài (Solenostomus armatus)
Cá ống ma tua xù (Solenostomus leptosomus)


Có thể kể ra một vài đặc tính khiến người ta phải tách chúng ra khỏi Syngnathidae. Thứ nhất là do loài Solenostomus có vây bụng, và một vây lưng thứ hai, và tất cả các vây đều phát triển tốt. Một sự khác nhau quan trọng nữa là con trống không chăm sóc và ấp trứng mà là con mái. Những thành viên của họ này trải rộng hơn về mặt địa lý (nếu so với Syngnathidae) phần lớn là do giai đoạn ấu thể ngoài biển khơi kéo dài. Nhưng chúng lại có vòng đời tương đối ngắn. Nếu bạn có dịp nuôi những chú cá thuộc hàng hiếm này, hãy yên trí là cách chăm sóc chúng cũng tương tự như đối với những thành viên thuộc họ Syngnathidae.
Sau đây là 4 loài phổ biến nhất trong số 6 loài kể trên :

Cá ống ma bông
tên khoa học : Solenostomus paradoxus


Là một trong những loài cá tuyệt đẹp hơn tất cả ở rặng đá ngầm. Mõm dài, vây mở rộng và những tua nhỏ trên da. Cá ma bông trông thật huyền ảo nhờ sự đa dạng về màu sắc, những mảng màu đan xen một cách lung linh bởi những chấm hay đường vân đủ màu trắng, vàng, cam, đỏ, nâu và đen.

Cá mái thường to hơn và có những vây bụng phát triển tạo thành những túi dùng cho việc sinh sản, tại đó trứng sẽ được ấp để nở ra cá con.
Theo kinh nghiệm của các nhà khoa học thì trong một cặp, cá trống và cá mái luôn có màu sắc giống nhau như cặp cá dưới đây:

Con trống hình trên và con mái hình dưới


Một cặp trống mái nữa với con trống hình trên và con mái hình dưới.



Loài này phân bố khu vực Ấn độ-Thái bình dương. Người ta thường thấy chúng xuất hiện ở những vùng biển duyên hải được che chắn như vịnh, phá hoặc các rặng đá ngầm đại dương.

Chúng thực sự trải qua một giai đoạn khá dài ngoài biển khơi, khi chúng còn là những ấu thể trong suốt. Chúng chỉ di chuyển vào vùng biển ven bờ một khi đã trưởng thành, để bắt cặp và sinh sản. Lúc này, chúng bắt đầu thay đổi màu sắc và trở nên đẹp lộng lẩy.

Đây là một con cá ống ma bông chỉ mới vừa qua giai đoạn ấu thể.

Cá ống ma bông thường được tìm thấy gần những chú sao lông, là đối tượng mà chúng có thể ngụy trang theo nhờ vào màu sắc và hình dáng. Người ta cũng thấy chúng xuất hiện quanh quẩn những dãy san hô sừng, san hô lông, san hô mềm và san hô đen. Chúng rất thích dòng nước trong lành bên trên những đệm cát rộng, rải rác những nhánh san hô sừng.

Rất dể phân biệt với những loài Solenostomus khác nhờ những tua nhỏ trên da và màu sắc sặc sỡ.

Chúng thường lượn lờ sát đáy, đầu chúc xuống hơi xiên. Cá trống và cá mái luôn quấn quít bên nhau, cá trống nhỏ hơn. Bức hình trên cho thấy cá mái đang sinh sản.



Sinh vật này còn được biết với cái tên cá ống ma hề (Harlequin Ghost Pipefish) thuộc lớp cá có xương, bộ Syngnathiformes, họ Solenostomidae, thuộc một họ nhỏ có bà con với cá ống và cá ngựa sống tại những vùng đệm cỏ và tảo biển. Hình dáng ngược đời của cá ống ma, cộng với làn da có những màu sáng và cực kỳ sặc sở tạo ra một lốt ngụy trang tráng lệ và hoàn hảo. Một con tôm con hay những con mồi nhỏ sẽ không thể nào ngờ nổi có một cái miệng nguy hiểm đang rình rập chúng ở một con vật có hình thù như một chiếc lá lạ lùng này. Nó có thể biến đổi ra nhiều màu sắc khác nhau để hòa mình vào môi trường xung quanh.

Loài cá này có thể nằm bất động cả ngày, thậm chí chúng chẳng buồn căng vây lên nữa. Vì vậy nếu không nhìn kỷ, bạn sẽ lầm chúng là một chiếc lá hay một nhánh san hô sừng. Nhưng khi đêm đến, chúng giương vây và bắt đầu tìm mồi quanh quẩn rặng san hô, nơi chúng thường ẩn nấp. Người ta nhận thấy có những con cá ống ma được tìm thấy tại một nơi vào năm trước, vẫn xuất hiện ngay chổ đó vào năm sau.

Một vài hình ảnh về loài cá có tính biến đổi cao này.

Cá ống ma đại
tên khoa học : Solenostomus cyanopterus
Loài này có một cái mõm khá dài, có thể thay đổi màu sắc từ xanh lá cây sang nâu để nhạy theo một chiếc lá của đám cỏ biển ở mức độ tinh xảo nhất. Đuôi kéo dài và cuống đuôi ngắn đặc biệt ở những con mái to hơn. Những cô cái mái phát triển đạt chiều dài tối đa là 15cm, được xem là thành viên lớn nhất của gia đình ống ma như tên gọi của nó.

Phân bổ vùng biển Ấn độ-Thái bình dương. Hệ sinh thái của chúng tập trung chủ yếu ở các vịnh hoặc phá. Hình sau đây là một con mái màu nâu và một con trống xanh lá cây bơi sát bên dưới. Chúng ăn các loại giáp xác và cá nhỏ.

Con cá ống ma thô này vừa tóm được một con cá nhỏ, có lẻ là một con cá bống.

Chúng thường sống chung với đám cỏ biển, nơi chúng có thể ngụy trang một cách tài tình để lẫn vào môi trường xung quanh.

Một cặp cá ống ma thô với con mái to hơn bên dưới.

Điểm khác biệt chính của cá ống ma thô với những loài Solenostomus khác là chúng có đuôi dài hơn nhưng cuống đuôi lại ngắn hơn. Tuy nhiên, nếu so với Solenostomus paegnius thì S. Cyanopterus có cuống đuôi hơi dài hơn một chút.

Sau khi xem xét đuôi và cuống đuôi, ta có thể xác định chú cá hình trên thuộc Solenostomus cyanopterus.

Hình trên là một con trống xanh lá cây. Dáng bơi của chú cá này là một điển hình, đầu hơi chúc xuống, lờ đờ giật lùi, trông cứ như là một chiếc lá rụng ra từ đám cỏ biển vậy.

Một vài hình ảnh minh họa sự biến đổi màu sắc ở cá ống ma thô.

Hình trên là một con trống với những sợi tơ trên da, tương tự như loài S. paegnius.

Cá ống ma xù
tên khoa học : Solenostomus paegnius
Gần giống với S. cyanopterus, dài khoảng 12cm, có thể đổi màu từ xanh lá sang nâu đỏ, trên da đầy những tơ nhỏ; mỏng và phân nhánh. Thoạt nhìn giống như chúng bị tảo bao phủ. Hình trên là một chú cá ống ma xù trống.

Phân bố tại các vùng biển Ấn độ-Thái bình dương.

Loài này có một quá trình ấu thể ngoài biển khá dài, đến khi gần bằng kích thước con trưởng thành, chúng di chuyển đến vùng vịnh, tập trung ở tầng đáy, nơi có nhiều cát chỉ khi nào đủ trưởng thành để ắt cặp và sinh sản.

Thường sống gần những nơi có nhiều tảo hay tập đoàn thủy tức.

Giống với loài S. cyanopterus, phân biệt được rõ ràng nhờ vào cuống đuôi ngắn. Nếu những sợi tơ của chúng có thể gây nhầm lẫn với S. paradoxus thì có thể phân biệt nhờ vào cái đuôi dài và lởm chởm hơn, nhờ vào những sợi tơ mỏng hơn; ngắn hơn và chia nhánh và mảng màu đều đều giống nhau.

Từ trên xuống hai con trống và một con mái.

Cá ống ma Halimeda
tên khoa học : loài Solenostomus
Đây có lẽ là loài ống ma nhỏ nhất với chiều dài khi trưởng thành chỉ đạt 6cm, mõm rất dài, đuôi ngắn, cuống đuôi dài.

Phân bổ vùng biển Ấn độ-Thái bình dương.

Sống tại các vịnh, phá hoặc rặng đá ngầm ngoài.

Rất thường thấy ở những khu vực có nhiều tảo. Khi chúng ở gần loại tảo Halimeda xanh lá, chúng tỏa màu xanh sáng lên một cách đẹp mắt. Tương tự, khi tiếp cận vùng tảo đỏ san hô, chúng sẽ thay bộ áo đỏ hoặc nâu mới.

Điểm khác biệt chính khi so với S. cyanopterus là chúng có đuôi ngắn và cuống đuôi dài.

Có khoảng 200 loài cá ống khác nhau trên khắp thế giới, nhưng chỉ một ít trong số đó là được nhập khẩu thường xuyên. Một số loài cá ống như cá ống da sấu, cá ống sọc xanh biển, cá ống mạ vàng, cá ống sọc v..v... có thể được mua dể dàng.

Riêng đối với cá ống ma, hầu hết trong chúng ta đều chưa có dịp may được chiêm ngưỡng vẽ đẹp này ngoài trang sách cũng như trên các trang web. Số đông xem được loài cá này ngoài đời thật là tại những bể cá công cộng lớn. Một số ít khác vẫn có cơ hội để được lặn cùng chúng. Dường như chưa ai có được một con cá này tại bể cá gia đình.


Thứ Hai, 5 tháng 11, 2007

Lươn biển dùng hàm phụ để nuốt mồi

'Alien' Jaws Help Moray Eels Feed
Các nhà nghiên cứu tại Đại học California Davis (UC Davis) vừa khám phá ra rằng lươn biển có một cách nuốt mồi độc đáo làm người ta liên tưởng đến một bộ phim khoa học viễn tưởng. Sau khi tóm được con mồi bằng hàm, một bộ hàm thứ hai nằm ẩn trong họng của lươn biển vươn tới trước vào trong vòm miệng để ngoạm lấy thức ăn, mang ngược lại thực quản và sau đó là nuốt.



"Nhìn chung thì đây là một thay đổi trong cách thức ăn của cá thực đáng kinh ngạc" Rita Mehta - một nhà nghiên cứu sau tiến sĩ thuộc khoa Tiến hóa và Sinh thái tại UC Davis - cho biết.

Mehta nói nghiên cứu cho thấy những sự đa dạng ấn tượng có thể có trong sự sống, thậm chí những điều rất cơ bản như việc ăn uống.

Nhà nghiên cứu đã dùng một camera kỷ thuật số tốc độ nhanh để quay phim những chú lươn biển ăn mồi trong phòng thí nghiệm, để có thể quay được chuyển động nhanh của bộ hàm thứ hai nằm ở yết hầu này. Cô ấy cũng dùng máy chụp X quang và vài thiết bị ghi hình khác tại khoa Thú y UC Davis nhằm tìm ra bí mật về sự chuyển động của bộ hàm.

Các tấm ảnh chụp X quang cho thấy vị trí bình thường của bộ hàm yết hầu (ảnh trên), và cách bộ hàm này chuyển động về phía trước vào khoang miệng để tóm lấy con mồi (ảnh dưới). (Nguồn : Rita Mehta khoa Tiến hóa Sinh thái và Candi Stafford, khoa Thú y trường Đại học California Davis).












Lươn biển thuộc họ Muraenidae, có mang dạng lổ thông hơi và không có vây ức (tay bơi). Hơn 200 loài lươn biển được tìm thấy ở các vùng biển nhiệt đới trên thế giới, thường ẩn mình
trong các hốc đá và rặng san hô. Trong thiên nhiên, chúng có thể đạt đến chiều dài 3 mét.

Đa số cá ăn bằng cách hút. Khi gặp thức ăn hay con mồi, cá nhanh chóng mở rộng khoang miệng, hút nước và thức ăn vào theo. Vài loại cá ăn bằng cách há to miệng nuốt chửng lấy con mồi hay dùng hàm để ngoạm chặt nó. Nhưng hầu hết cá sau đó dùng cách hút để chuyển thức ăn từ miệng xuống thực quản.

Nhưng, Mehta nhận thấy những con lươn biển có ít khả năng để tạo ra sự hút xuyên qua miệng của chúng. Thay vào đó, đầu tiên chúng táp mồi bằng bộ hàm ngoài mạnh mẻ để thưởng thức hương vị món ăn. Sau đó, bộ hàm ẩn bên trong họng với những răng lớn và cong vươn tới trước để ngoạm lấy con mồi. Cùng lúc hàm ngoài sẽ nhả con mồi ra và hàm trong đưa con mồi vào để thực hiện việc nuốt. Toàn bộ tiến trình chỉ mất vài phần giây.


Vài loại cá cũng có hàm hầu có khả năng nghiền nát thức ăn, nhưng "không hấp dẫn ngoạn mục như trường hợp này", Peter Wainwright - giáo sư khoa Tiến hóa và Sinh thái thuộc UC Davis và cũng là đồng tác giả với Mehta - cho biết thêm. Dường như chỉ có lươn biển là có bộ hàm thứ hai, di động có thể vươn ra trước để ngoạm mồi.

Lúc nghỉ, bộ hàm trong nằm sau xương sọ của lươn biển. Khi vươn ra, nó chuyển động gần hết chiều dài sọ của con vật nhưng vẫn không lòi ra khỏi bộ hàm ngoài. Sự sắp xếp có ý nghĩa là dù cho con lươn chỉ cắm vài cái răng vào con mồi, nó vẫn có thể giữ chặt lấy bửa ăn bằng bộ hàm trong.


Mehta so sánh lươn biển với rắn, là loài thường xuyên phải tọng những con mồi to quá mức so với cái miệng hơi bị nhỏ vào trong một cơ thể vừa dài vừa mỏng. Rắn giải quyết vấn đề bằng sự co giãn, nó có khả năng tách rời phần bên trái và bên phải của hàm, chúng sẽ giử chặt con mồi bằng một bên trong khi sử dụng hàm bên kia vòng qua nó.

Mehta và Wainwright đang nghiên cứu xem bộ hàm khác thường kể trên của lươn biển đã tiến hóa như thế nào. Một loài lươn khác, chẳng hạn như lươn châu Mỹ Anguilla vẫn ăn mồi bằng cách hút. Có lẽ việc lươn biển phát triễn kỹ năng này là do hệ quả từ sự săn mồi trong khoảng không gian bị giới hạn, vì trong những hốc đá chúng không thể phình đầu to thật nhanh để tạo ra một lực hút được.



"Lươn là một nhóm cá rất đa dạng và kỳ lạ một cách đáng ngạc nhiên, nhưng lại không được nổi tiếng cho lắm" - Wainwright nói.

Nghiên cứu này được công bố trên tập san Nature số ra ngày 6 tháng 9/2007 và được tài trợ kinh phí từ Hiệp hội Đại học Phụ nữ Mỹ (American Association of University Women) và Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation).

Một số hình ảnh lươn biển





Thứ Hai, 15 tháng 10, 2007

Piranha : Không chỉ là những cổ máy ăn thịt

Piranha nổi tiếng là loài cá hung dữ và nguy hiểm có thể vùi thây bất cứ sinh vật nào mà chúng chạm trán hoàn toàn nhờ vào sức mạnh của số đông. Mỗi cá thể Piranha có thể là nhỏ, nhưng chúng được trang bị những bộ răng sắc bén và đôi hàm cực khỏe, khi di chuyển thành bầy chúng nhanh chóng lóc thịt sạch sẽ con mồi xấu số, chẳng chừa lại gì ngoài bộ xương chỉ trong vài phút.

Tuy nhiên đó chỉ là những lời đồn thổi. Trong thực tế, piranha là một loài cá bất kham, hơi nhút nhát và phần lớn thời gian chúng lẩn quẩn quanh đám cây cỏ và trong bóng râm. Chúng không đặc biệt linh động mà cũng chẳng thông minh, nếu so với cichlids(cá rô) hay pufferfish(cá nóc) chúng không hấp dẫn gì mấy. Nhưng dĩ nhiên, chúng là một loài động vật thú vị, đôi khi có màu sắc tương đối, vì vậy những người chơi cá với kinh nghiệm còn hạn chế sẽ học hỏi được nhiều điều khi đi sâu vào tìm hiểu chúng.

Phân loại

Piranha thuộc họ Characidae, và như vậy chúng có bà con gần với các loài như Tetra và Pencilfish(cá bút chì). Cụ thể hơn thì chúng là những thành viên thuộc phân họ Serrasalminae, đối với các nhà nuôi cá thì đại khái có thể được chia ra làm 3 nhóm cơ bản như sau : Pacus lớn chỉ ăn thực vật(the giant vegetarian pacus)(chẳng hạn như loài Colossoma); Đôla bạc ăn tạp có kích thước nhỏ hơn(the smaller omnivorous silver dollars)(như loài Metynnis); và Piranha ăn thịt sống(như loài Pygocentrus).

Colossoma macropomum ostergaard

Tất cả các loài cá trên đều có chung hình dáng là hơi tròn và dẹp hai bên. Điểm khác nhau chính để phân biệt chúng nằm ở bộ hàm và loại răng mà chúng sở hữu. Ví dụ như loài pacus ăn cỏ có răng bẹt hơi giống như răng hàm dùng để nghiền quả và hạt. Trong khi đó piranha lại có răng sắt bén dùng để lóc thịt, và một điểm đặc trưng là hàm dưới hơi nhô ra trước so với hàm trên.

Metynnis hypsauchen

Trong lúc sự phân loại phân họ Serrasalminae đang trong tình trạng hay thay đổi như hiện nay, thì hiện tại các nhà ngư học xem 5 loài sau đây là piranha thật sự : Catoprion, Pristobrycon, Pygocentrus, Pygopristis và Serrasalmus. Trong số này, Catoprion là dể phân biệt bởi tính ăn sạch vây và vảy của các khác.

Pygocentrus cariba

Hệ sinh thái trong thiên nhiên.

Piranha có khu vực sống khá đa dạng, từ những dòng suối, con lạch cho đến sông hồ đều có mặt chúng. Piranha đứng ở vị trí giữa trong chuổi cá lớn ăn cá nhỏ hơn. Có nghĩa là chúng ăn thịt các loài cá nhỏ và động vật không xương sống, đến lượt chúng bị ăn lại bởi những loài thú ăn thịt khác như rái cá, cá heo sông, cá ăn thịt lớn hơn và cả con người nữa.

Ngược lại với những gì bạn thường được nghe, trong tự nhiên, thường thì cá piranha không tấn công những con mồi lớn một cách chủ động. Thật ra chúng là một loài cá hơi thụ động, chính xác thì chúng được mô tả như là những kẻ săn mồi cơ hội. Trong môi trường hoang dã, piranha không chỉ ăn cá khác mà còn xơi luôn một số loại động vật không xương sống như ốc sên, các loài giáp xác và ấu trùng sâu bọ. Loài Catoprion đã trở nên đặc biệt vì chuyên ăn vây và vảy. Xác thối rửa là phần chính trong khẩu phần ăn của chúng, và với một chừng mực nào đó, những câu chuyện kể rằng chúng ăn thịt những động vật có vú to lớn có thể đã dựa vào điều này. Ngoài thịt ra, piranha còn ăn rất nhiều những thứ từ cây cỏ như tảo, trái cây và hạt.

Cá piranha khá thụ động hầu như cả ngày, chỉ sục sạo kiếm mồi lúc sáng sớm và lúc trời chạng vạng tối. Chúng thường tránh những nơi có quá nhiều ánh sáng, chúng thích sống ở những khu vực có nhiều cây cối, đặc biệt là các loại thực vật nổi.

Hành vi sinh hoạt xã hội

Piranha là loài cá sống theo bầy đàn. Tuy nhiên, chỉ dạo gần đây người ta mới làm rõ nguyên nhân vì sao chúng lại có tập tính ấy. Một thời gian dài, việc piranha bơi thành nhóm được cho là để chúng hợp tác với nhau săn mồi, để có thể tấn công những con mồi to lớn hơn nhiều lần nếu không nhờ số đông.


Những nghiên cứu gần đây đã gợi ý ra rằng piranha tập hợp thành bầy đàn là vì lý do phòng vệ. Trong suốt mùa nước, khi mà mực nước lên cao, không gian rộng rãi hơn cho việc tìm thức ăn cũng như tránh các loài thú ăn thịt, piranha bơi thành những nhóm nhỏ chỉ vài con. Nhưng một khi mùa khô đến, mực nước hạ thấp dần, những nhóm nhỏ này sẽ gộp lại thành những nhóm lớn khoảng 50 con hoặc nhiều hơn. Điều này dường như là để phản ứng lại với những mối nguy hiểm tăng lên bởi thú ăn thịt thích ăn piranha nhưng không bị giới hạn trong một khu vực nhỏ dần.

Trong thiên nhiên, khi sống trong bầy đàn piranha rất là có tôn ti trật tự. Khi đem về nuôi làm kiểng, điều này có thể là cả một vấn đề, đặc biệt là nếu nuôi dưới 6 con. Sự tranh giành thứ bậc có thể tạo ra cảnh rượt đuổi và cắn nhau. Đôi lúc, sự hung hăng lên cao trào đến mức, người ta buộc phải bắt những con cá lớn ra nuôi riêng biệt.

Nói chung, chỉ có piranha thuộc giống Pygocentrus là đáng tin cậy để nuôi một nhóm ổn định trong điều kiện hồ kiểng gia đình. Ví dụ như piranha bụng đỏ Pygocentrus nattereri, bạn có thể nuôi chúng thành từng nhóm từ 4 đến 6 con khá cân đối. Piranha thuộc những giống khác chỉ có khuynh hướng bầy đàn khi chúng còn nhỏ, trong điều kiện nuôi kiểng chúng hung hăng đến mức khó có thể nuôi chung một cách an toàn. Loại piranha này tốt nhất nên nuôi riêng lẻ từng con một.

Sinh sản

Trong thiên nhiên, piranha sinh sản trên các loại thực vật nổi chẳng hạn như cây lan dạ hương nước. Trứng được đẻ dưới đáy, nhưng khi nở ra, cá bột sẽ ẩn vào những cây nổi đó. Một vài loài ít nhất cũng biết bảo vệ trứng và cá con. Gần đây đã có sự gia tăng hiện tượng cá piranha tấn công người ở Brazin, thậm chí những hồ nhân tạo hấp dẫn người tắm cũng biến thành những nơi sinh sản được cá piranha ưa chuộng.

Con piranha bụng đỏ 4 tuổi rưởi này trưởng thành có thể sinh đẻ được.

Trứng piranha bụng đỏ được thụ tinh.

Piranha bột 1 tuần tuổi.

Piranha lứa 1 tháng tuổi.

Hầu hết các báo cáo về sinh sản của cá piranha trong bể nuôi là ở loài Pygocentrus nattereri, có thể là do tính dể thích nghi nhất của chúng trong số tất cả cá piranha trên thị trường. Sự sinh sản đòi hỏi một bể nuôi khá to (khoảng từ 500 đến 1000 lít). Việc bắt cặp diễn ra khá là thô bạo, do đó trong giai đoạn này nhất thiết phải theo dỏi cá đề phòng chúng làm tổn thương nhau. Vì loài này không có sự khác nhau rõ rệt đáng tin cậy nào giữa trống và mái, nên người ta luôn nuôi chúng ở số nhiều để chúng bắt cặp một cách tự nhiên. Sau khi quan sát thấy cặp cá chuẩn bị làm tổ, người nuôi sẽ dời cặp cá sang một hồ khác.

Cá đẻ một lần từ vài trăm đến vài ngàn trứng. Cá trống hầu như làm hết các công việc bảo vệ và chăm sóc trứng, và thường là sẽ đuổi cá mái đi ngay sau khi đẻ xong. Trứng sẽ nở trong vài ngày, nhưng không nên cho cá bột ăn gì cho tới khi túi noãn hoàn của chúng được tiêu hết. Sau khi cá bột đã tiêu hết noãn hoàn, bắt đầu cho chúng ăn thức ăn sống như tôm biển artemia. Cá bột có thể ăn thịt đồng loại nên tốt nhất là tách chúng ra theo size khi chúng lớn dần.

Điều kiện bể nuôi

Cá piranha không khó nuôi miễn là ta đáp ứng cho nó một số điều cơ bản sau đây. Trước khi bắt đầu, bạn cần quyết định xem sẽ nuôi một bầy hay chỉ một con. Tất cả loài Pygocentrus và một vài loài Serrasalmus có thể nuôi thành từng nhóm không dưới 4 con khá tốt nhưng tốt nhất là nuôi ít nhất 6 con. Mặc dù trong thiên nhiên hoang dã chúng sống theo bầy đàn, nhưng ở bể nuôi nếu chỉ có 2 hoặc 3 con, chúng có khuynh hướng gây hấn lẫn nhau và chẳng chóng thì chầy rồi thì cũng sẽ chỉ còn mỗi một con mạnh nhất. Mặt khác, dù gì đi nữa thì cá trưởng thành Catoprion, Pristobrycon, Pygopristis và đa số Serrasalmus cũng không thể sống chung trong một bể nuôi, vì thế bạn nên nuôi chúng riêng lẻ.

Giống như những loài cá ăn thịt to lớn khác, piranha cần không gian rộng rãi và hệ thống lọc tương đối quy mô. Một nguyên tắc được mọi người công nhận là không nuôi dưới 75 lít nước một con piranha, có nghĩa là để nuôi một nhóm 6 con piranha bụng đỏ bạn nên có một bể nuôi tối thiểu phải đạt 450 lít. Hệ thống lọc đủ khả năng xoay vòng khối lượng nước trong bể không dưới 6 lần một giờ. Nói cách khác, bể 450 lít cần lắp đặt một máy lọc với năng suất nước xoay tua là 2700 lít một giờ.

Vì khu vực sống của piranha là những bờ sông đầy cây cỏ um tùm, vậy tốt nhất nên trồng vào bể nuôi thật nhiều cây thủy sinh. Ngoài ra, piranha cũng không thích ánh sáng chói chang, bạn có thể sử dụng các loại cây bằng nhựa, cao tới miệng hồ để chúng đan xen tạo ra bóng râm cho cá. Tuy nhiên, nếu bạn thích chơi cây thật, hãy chọn những cây có tốc độ phát triển nhanh như Vallisneria vì loại cây này sẽ nhanh chóng phủ lấy bề mặt bể nuôi nhưng cũng sẽ bị một số thiệt hại do piranha cảm thấy thích ăn chúng.

Các tiêu chuẩn hóa học của nước nhìn chung không quan trọng. Trong thiên nhiên, piranha được tìm thấy trong môi trường từ hơi axít đến trung tính, nước hơi mềm, nhưng nước kiềm và cứng vùng phía Nam nước Anh cũng chẳng gây cho piranha một vấn đề cụ thể nào. Thế nhưng, chất lượng nước lại quan trọng. Ngoài việc lọc đủ như mô tả ở trên, hàng tuần nên thay 50% nước, và không nên cho cá ăn quá no. Piranha rất nhạy cảm với nồng độ oxy thấp. Không để nhiệt độ hồ quá ấm, khoảng từ 24 đến 26 độ C là vừa, vào mùa hè nếu cần có thể sử dụng thêm quạt để làm mát. Và đừng bao giờ nuôi piranha quá số lượng cho phép.


Piranha rõ ràng không phải là một loài cá cộng đồng, nhưng cũng không nên nuôi chung 2 loài khác nhau với nhau bởi vì loài lớn và mạnh hơn sẽ ăn hiếp (đôi khi thịt luôn) loài yếu hơn. Đôi lúc có vài người nuôi chúng chung với cá mèo giáp sắt to, chẳng hạn như plec, nhưng điều này không được khuyến khích.

Chắc cũng không cần phải nhắc lại rằng piranha là một loài vật tiềm ẩn nguy hiểm. Chúng sẽ cắn bạn thực sự khi chúng cảm thấy sợ hải. Bạn phải luôn đề phòng khi bạn làm việc trong bể, như chùi rửa chẳng hạn, có thể dùng một lưới to để giới hạn chúng trong một góc hồ. Piranha đặc biệt nguy hiểm khi chúng nhảy ra khỏi bể nuôi, và chúng thường làm thế khi bị hoảng hốt. Trong lúc quẩy đập, rất dể dẫn đến việc chúng cắn người nuôi. Khi gặp trường hợp này, bạn nên dùng một cây vợt dầy, cán dài, lưới ướt để bảo vệ chính bạn và đem cá trở về bể nuôi một cách an toàn.

Chế độ ăn uống

Một trong những hiểu lầm thường gặp nhất khi nuôi piranha là người ta cho rằng chúng chỉ ăn mồi sống, đặc biệt là cá. Thực ra, chúng là loài dể ăn và ăn tạp hơn vậy nhiều, thực tế cho thấy chúng có thể ăn được tất cả các loại thực phẩm làm từ thịt và thực phẩm chế biến. Những con lớn rất thích thú ăn các loại cá trắng nhỏ, tôm, mực, con trai, còn những con nhỏ hơn sẽ xơi trùn hoặc ấu trùng sâu bọ.

Một khi đã ổn định, đa số piranha sẽ dể dàng chấp nhận loại thức ăn viên dành cho cá ăn thịt. Đừng bao giờ cho piranha ăn cá vàng và cá loài cá thuộc họ chép khác (chẳng hạn như cá tuế (minnow)). Ngoài việc là nguồn lây nhiểm vi khuẩn và ký sinh trùng, các loài cá họ chép còn chứa nhiều mở và enzym thiaminase sẽ làm vở vitamin B1 có thể gây ra những vấn đề nếu cho ăn trong một thời gian dài. Nên tránh cho cá ăn những thức ăn có chứa nhiều chất béo như thịt, thịt gà, phô mai v..v...

Vì ngoài thiên nhiên cá ăn cả cây cỏ, bạn cũng nên tập cho piranha ăn một số thực phẩm xanh, đậu, dưa chuột xắt khoanh hay thức ăn viên đóng hộp làm từ tảo đều rất tốt. Mặc dầu không thực tế lắm nếu cho piranha ăn bằng trái cây hay hạt như chúng có thể ăn trong môi trường sông lạch hoang dã, nhưng chúng cũng sẽ thích thú nếu bạn thử các loại hạt khô, như hạt hoa hướng dương chẳng hạn như là một sự thay đổi khẩu vị cho cá.

Cũng như đối với các loại cá ăn mồi sống khác, không nên cho piranha ăn quá độ. Cho ăn một lượng nhỏ mỗi ngày, và dọn sạch thức ăn thừa sau 5 phút.

Có gì ở Wildwoods

Các bạn quan tâm đến piranha, hãy ghé thăm Wildwoods, nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Wildwoods còn có dịch vụ đặt hàng qua thư, do đó nếu bạn không có điều kiện đến tận nơi tại Enfield, hãy xem xét đặt hàng và Wildwoods sẽ chuyển cá đến các bạn bằng đường tàu.

Pygocentrus nattereri "siêu đỏ"

Nếu so với piranha bụng đỏ thông thường, thì "siêu đỏ" có một mảng đậm những chấm đen ở hai bên sườn và phần sắc đỏ rộng hơn ngang qua mắt và bụng. Chúng có thể đạt đến 30 cm trong môi trường nuôi nhốt. Là một loài cá phổ biến và dể thích nghi, "siêu đỏ" là loại piranha rất thích hợp với bể nuôi gia đình, đặc biệt là khi nuôi với số lượng tương đối, lý tưởng nhất là từ 6 con trở lên cho một bể nuôi.

Piranha răng thùy Pigopristis denticulata "Orinoco"

Thoạt nhìn thì loài này gần giống với piranha bụng đỏ, nhưng chúng có thể được phân biệt ngay lập tức bởi bộ răng rất khác thường. Loài piranha này có những cái vây màu đỏ bù lại với thân toàn màu bạc điểm bởi vô số những chấm đen nhỏ. Đây là loài nhỏ nhất trong số các loài piranha, ngoài thiên nhiên chúng chỉ đạt kích thước tối đa là 20cm, còn trong điều kiện bể nuôi thì chúng còn nhỏ hơn nữa. Loài piranha này ăn cả vảy và vây của những con cá to hơn nhưng bơi lội chậm chạp. Bạn có thể nuôi chúng một mình riêng biệt hoặc nuôi từng nhóm 6 con hoặc nhiều hơn. Là một loài piranha thú vị, nhưng hiếm gặp ngoài thiên nhiên, và càng hiếm thấy trên thị trường cá cảnh.

Pristobrycon striolatus

Là một loài piranha nhỏ khác và là một trong số những loài cá ăn tạp nhất, loài này dường như chỉ ăn chủ yếu là hạt, chúng cũng ăn vây cá khác nhưng với mức độ ít hơn. Loài piranha này khá đẹp với thân hình màu bạc và một vùng đỏ kéo dài từ phía sau hàm dưới ra đến tận vây hậu môn. Phần rìa của vây đuôi có màu xám đậm. Rõ ràng, đây là một loại piranha thích sống cô độc trong thiên nhiên, vậy bạn nên nuôi chúng riêng lẻ trong bể nuôi là tốt nhất.

Serrasalmus humeralis "Xingu" Pirambeba

Đây là loài có kích cở trung bình được phân biệt bằng một vệt đen dài trên vây ức. Hàm dưới và nắp mang có màu vàng cam còn thân màu bạc. Là một trong những loài piranha ăn thịt hoàn toàn, thức ăn chính của chúng là cá nhỏ và đa dạng sinh vật đáy không xương sống. Điều kiện chăm sóc cơ bản tương tự như piranha bụng đỏ, thích hợp nuôi với số lượng tương đối nhiều.

Serrasalmus "Guyana đen"

Là một loại Serrasalmus rhombeus, một trong những loài piranha lớn nhất, có thể đạt tới 45 cm chiều dài và 30 cm vòng thân cá nơi to nhất. Nếu so với những loài piranha khác, Serrasalmus rhombeus phát triển khá chậm, và được cho là tương tự như loài "Guyana đen". Điều kiện chăm sóc giống như với piranha bụng đỏ, nhưng dĩ nhiên cần phải có bể nuôi to cho cá trưởng thành. Màu sắc của Serrasalmus rhombeus cũng muôn màu muôn vẽ tùy thuộc vào nơi chúng sinh sống, từ màu bạc khói đến màu đen xỉn. Serrasalmus "Guyana đen" đúng như tên gọi, là một trong những loại có màu tối xẩm nhất. Cá có viền đuôi trong suốt. Serrasalmus rhombeus là loài ăn thịt cơ hội, con mồi của chúng từ động vật có vú, thằn lằn cũng như các loại cá thông thường và động vật không xương sống. Trong khi cá nhỏ khá nhút nhát và sống thành từng bầy nhỏ, cá trưởng thành có khuynh hướng cô lập hơn và hung hăng với nhau hơn khi sống trong môi trường nhân tạo. Vậy nên tốt nhất nên nuôi loại này từng cá thể một.

Serrasalmus Piranha vàng lưng gù

Thêm một loại piranha cở trung nữa với đặc điểm là có màu vàng sáng vùng mặt và bụng. Rìa đuôi có màu xám sẩm. Cá to nhất được khoảng 20cm, nhưng cá trong môi trường nuôi nhốt bao giờ cũng nhỏ hơn cá sống ngoài thiên nhiên. Nếu điều kiện chăm sóc tốt, loài piranha dể thích nghi và đẹp mắt này sẽ là một đề tài hấp dẫn trong bể nuôi gia đình. Cách nuôi giống như piranha bụng đỏ, nhưng bởi vì chúng hơi gay hấn nên tốt nhất là nên nuôi từng con một.

Serrasalmus marginatus

Là một trong những loài piranha đẹp nhất, loài này có vẻ ngoài hơi giống với Serrasalmus spilopleura, nhưng nhỏ hơn một chút đạt khoảng 22cm. Thân có dạng hình thoi rất rõ, màu bạc và được điểm bởi những chấm đen nhỏ. Vây có màu sặc sở; vây lưng, vây mở và vây hậu môn vàng phết đỏ ở mép, vây đuôi chẻ vào khá sâu cũng màu vàng và có màu đen ở mép. Đây là loài cơ hội sống cô lập thích ăn vảy và vây của cá khác. So với các loài piranha khác, chúng hơi khác thường vì chuộng sống trong một khu vực nhất định hơn là rày đây mai đó. Serrasalmus marginatus cực kỳ hiếu chiến nên rất khó nuôi thành bầy, cho dù chúng được sinh ra từ những ao hoặc bể nuôi công cộng.

Thứ Ba, 25 tháng 9, 2007

Cá bướm châu Phi (Phần 1)

Tên thường gọi là cá bướm châu Phi (African Butterfly Fish), một loài cá khá độc đáo và ngộ nghỉnh có tên khoa học là Pantodon buchholzi, là thành viên duy nhất của họ Pantodontidae, và cũng là thành viên duy nhất của giống Pantodon - là giống chỉ có một đại diện.


Tên giống Pantodon xuất xứ từ tiếng Hy Lạp, pan có nghĩa là tất cả, còn odont là những cái răng, tên loài buchholzi được đặt theo tên của giáo sư R.W.Buchholz, người đã khám phá ra loài cá này.

Cá bướm châu Phi được mô tả lần đầu tiên vào năm 1877 bởi Peters với cái tên Pantodon buchholzi. Chúng được bắt từ những lạch nhỏ đổ vào sông Victoria tại Cameroon, thuộc Tây Phi. Nhưng mãi đến năm 1905 thì chúng mới được phổ biến trong giới chơi cá cảnh. Tuy nhiên, người ta chưa bao giờ mua được chúng với số lượng nhiều cho đến dạo gần đây, một phần cũng vì chúng được khai thác từ những quốc gia có nghành xuất khẩu cá không phát triển mạnh.

Nhìn từ trên xuống, những vây ức(tay bơi) có hoa văn to một cách khác thường trông cứ như là cánh bướm lượn là đà trên mặt nước, còn nữa, những đốm sáng tối bên dưới vây ức cũng gợi lên hình ảnh của cánh bướm, đó là lý do vì sao chúng có tên thường gọi là cá bướm.

Pantodon buchholzi sống trong những cái hốc gần mặt nước để chúng có thể vừa nhìn được trong nước vừa nhìn xuyên qua mặt nước vào khoảng không bên trên, bằng những cấu trúc đặc biệt thích nghi trong thủy tinh thể, võng mạc và khắp các thành phần cấu tạo của mắt.

Cá bướm châu Phi còn nổi tiếng là có khả năng lướt một đoạn ngắn trên không. Để thực hiện "chuyến bay" chúng không đập vây như chim mà nhảy mạnh lên khỏi mặt nước nhờ chủ yếu vào sức mạnh của đuôi và vây ức. Nhờ vào khả năng này chúng có thể dể dàng thoát khỏi các loài thú ăn thịt cũng như có thể vồ được những con mồi bên trên mặt nước.

Mô tả hình dáng :
- Pantodon buchholzi là một loài cá có hình thon dài, với mặt lưng phẳng và phần bụng tròn, đặc trưng của những loài sống gần mặt nước.
- Thân hình giống như chiếc thuyền với một sống lưng giữ cho nó khỏi chòng chành.
- Vây ức hình cánh khá to so với toàn bộ cơ thể.
- Hai vây ức này có những hoa văn màu sẫm trông giống như những cánh bướm.
- Cái đầu nhỏ bị lấn át bởi một cái miệng rộng và há lên trên.
- Vây lưng, đuôi và vây hậu môn là những màng trong suốt với tia dầy lốm đốm chấm đen.
- Vây chậu(kỳ) có màu hồng với những gân vây duổi dài.
- Mỗi bên kỳ có một tia dài nhất, dài hơn hẳn những tia còn lại.
- Vây lưng nhỏ và được xếp gọn về phía sau đuôi.
- Cá có màu nền nâu được tô điểm bởi những chấm và sọc trắng đen.
- Đôi mắt khá to màu nâu đỏ sẫm, và một lằn sẫm màu chạy chéo qua mắt.



Phân loại :
- Giới : Động vật.
- Ngành : Dây sống, ngành phụ : động vật có xương sống, nhóm : cá.
- Lớp : Osteichthyes(cá nhiều xương), lớp phụ : Actinopterygii(cá vây có tia).
- Bộ : Osteoglossiformes(lưởi có xương).
- Họ : Pantodontidae(cá bướm nước ngọt)
- Giống : Pantodon
- Loài : buchholzi

Biến thể về mặt địa lý :
- Không có.

Loài tương tự :
- Không có, đây là loài cá độc nhất và rất dể phân biệt qua ngoại hình.

Nơi sinh sống :
- Pantodon buchholzi rất phổ biến ở những hồ và lạch nhỏ ở Tây Phi.
- Chúng được tìm thấy ở những nơi nước yên hoặc chảy chậm với những bờ bụi cây rậm rạp tại Nigeria, Cameroon và Zaire.
- Người ta thường thấy từng đám lá nổi lềnh bềnh của những loài cây thủy sinh nơi chúng sinh sống.