Thứ Hai, 15 tháng 10, 2007

Piranha : Không chỉ là những cổ máy ăn thịt

Piranha nổi tiếng là loài cá hung dữ và nguy hiểm có thể vùi thây bất cứ sinh vật nào mà chúng chạm trán hoàn toàn nhờ vào sức mạnh của số đông. Mỗi cá thể Piranha có thể là nhỏ, nhưng chúng được trang bị những bộ răng sắc bén và đôi hàm cực khỏe, khi di chuyển thành bầy chúng nhanh chóng lóc thịt sạch sẽ con mồi xấu số, chẳng chừa lại gì ngoài bộ xương chỉ trong vài phút.

Tuy nhiên đó chỉ là những lời đồn thổi. Trong thực tế, piranha là một loài cá bất kham, hơi nhút nhát và phần lớn thời gian chúng lẩn quẩn quanh đám cây cỏ và trong bóng râm. Chúng không đặc biệt linh động mà cũng chẳng thông minh, nếu so với cichlids(cá rô) hay pufferfish(cá nóc) chúng không hấp dẫn gì mấy. Nhưng dĩ nhiên, chúng là một loài động vật thú vị, đôi khi có màu sắc tương đối, vì vậy những người chơi cá với kinh nghiệm còn hạn chế sẽ học hỏi được nhiều điều khi đi sâu vào tìm hiểu chúng.

Phân loại

Piranha thuộc họ Characidae, và như vậy chúng có bà con gần với các loài như Tetra và Pencilfish(cá bút chì). Cụ thể hơn thì chúng là những thành viên thuộc phân họ Serrasalminae, đối với các nhà nuôi cá thì đại khái có thể được chia ra làm 3 nhóm cơ bản như sau : Pacus lớn chỉ ăn thực vật(the giant vegetarian pacus)(chẳng hạn như loài Colossoma); Đôla bạc ăn tạp có kích thước nhỏ hơn(the smaller omnivorous silver dollars)(như loài Metynnis); và Piranha ăn thịt sống(như loài Pygocentrus).

Colossoma macropomum ostergaard

Tất cả các loài cá trên đều có chung hình dáng là hơi tròn và dẹp hai bên. Điểm khác nhau chính để phân biệt chúng nằm ở bộ hàm và loại răng mà chúng sở hữu. Ví dụ như loài pacus ăn cỏ có răng bẹt hơi giống như răng hàm dùng để nghiền quả và hạt. Trong khi đó piranha lại có răng sắt bén dùng để lóc thịt, và một điểm đặc trưng là hàm dưới hơi nhô ra trước so với hàm trên.

Metynnis hypsauchen

Trong lúc sự phân loại phân họ Serrasalminae đang trong tình trạng hay thay đổi như hiện nay, thì hiện tại các nhà ngư học xem 5 loài sau đây là piranha thật sự : Catoprion, Pristobrycon, Pygocentrus, Pygopristis và Serrasalmus. Trong số này, Catoprion là dể phân biệt bởi tính ăn sạch vây và vảy của các khác.

Pygocentrus cariba

Hệ sinh thái trong thiên nhiên.

Piranha có khu vực sống khá đa dạng, từ những dòng suối, con lạch cho đến sông hồ đều có mặt chúng. Piranha đứng ở vị trí giữa trong chuổi cá lớn ăn cá nhỏ hơn. Có nghĩa là chúng ăn thịt các loài cá nhỏ và động vật không xương sống, đến lượt chúng bị ăn lại bởi những loài thú ăn thịt khác như rái cá, cá heo sông, cá ăn thịt lớn hơn và cả con người nữa.

Ngược lại với những gì bạn thường được nghe, trong tự nhiên, thường thì cá piranha không tấn công những con mồi lớn một cách chủ động. Thật ra chúng là một loài cá hơi thụ động, chính xác thì chúng được mô tả như là những kẻ săn mồi cơ hội. Trong môi trường hoang dã, piranha không chỉ ăn cá khác mà còn xơi luôn một số loại động vật không xương sống như ốc sên, các loài giáp xác và ấu trùng sâu bọ. Loài Catoprion đã trở nên đặc biệt vì chuyên ăn vây và vảy. Xác thối rửa là phần chính trong khẩu phần ăn của chúng, và với một chừng mực nào đó, những câu chuyện kể rằng chúng ăn thịt những động vật có vú to lớn có thể đã dựa vào điều này. Ngoài thịt ra, piranha còn ăn rất nhiều những thứ từ cây cỏ như tảo, trái cây và hạt.

Cá piranha khá thụ động hầu như cả ngày, chỉ sục sạo kiếm mồi lúc sáng sớm và lúc trời chạng vạng tối. Chúng thường tránh những nơi có quá nhiều ánh sáng, chúng thích sống ở những khu vực có nhiều cây cối, đặc biệt là các loại thực vật nổi.

Hành vi sinh hoạt xã hội

Piranha là loài cá sống theo bầy đàn. Tuy nhiên, chỉ dạo gần đây người ta mới làm rõ nguyên nhân vì sao chúng lại có tập tính ấy. Một thời gian dài, việc piranha bơi thành nhóm được cho là để chúng hợp tác với nhau săn mồi, để có thể tấn công những con mồi to lớn hơn nhiều lần nếu không nhờ số đông.


Những nghiên cứu gần đây đã gợi ý ra rằng piranha tập hợp thành bầy đàn là vì lý do phòng vệ. Trong suốt mùa nước, khi mà mực nước lên cao, không gian rộng rãi hơn cho việc tìm thức ăn cũng như tránh các loài thú ăn thịt, piranha bơi thành những nhóm nhỏ chỉ vài con. Nhưng một khi mùa khô đến, mực nước hạ thấp dần, những nhóm nhỏ này sẽ gộp lại thành những nhóm lớn khoảng 50 con hoặc nhiều hơn. Điều này dường như là để phản ứng lại với những mối nguy hiểm tăng lên bởi thú ăn thịt thích ăn piranha nhưng không bị giới hạn trong một khu vực nhỏ dần.

Trong thiên nhiên, khi sống trong bầy đàn piranha rất là có tôn ti trật tự. Khi đem về nuôi làm kiểng, điều này có thể là cả một vấn đề, đặc biệt là nếu nuôi dưới 6 con. Sự tranh giành thứ bậc có thể tạo ra cảnh rượt đuổi và cắn nhau. Đôi lúc, sự hung hăng lên cao trào đến mức, người ta buộc phải bắt những con cá lớn ra nuôi riêng biệt.

Nói chung, chỉ có piranha thuộc giống Pygocentrus là đáng tin cậy để nuôi một nhóm ổn định trong điều kiện hồ kiểng gia đình. Ví dụ như piranha bụng đỏ Pygocentrus nattereri, bạn có thể nuôi chúng thành từng nhóm từ 4 đến 6 con khá cân đối. Piranha thuộc những giống khác chỉ có khuynh hướng bầy đàn khi chúng còn nhỏ, trong điều kiện nuôi kiểng chúng hung hăng đến mức khó có thể nuôi chung một cách an toàn. Loại piranha này tốt nhất nên nuôi riêng lẻ từng con một.

Sinh sản

Trong thiên nhiên, piranha sinh sản trên các loại thực vật nổi chẳng hạn như cây lan dạ hương nước. Trứng được đẻ dưới đáy, nhưng khi nở ra, cá bột sẽ ẩn vào những cây nổi đó. Một vài loài ít nhất cũng biết bảo vệ trứng và cá con. Gần đây đã có sự gia tăng hiện tượng cá piranha tấn công người ở Brazin, thậm chí những hồ nhân tạo hấp dẫn người tắm cũng biến thành những nơi sinh sản được cá piranha ưa chuộng.

Con piranha bụng đỏ 4 tuổi rưởi này trưởng thành có thể sinh đẻ được.

Trứng piranha bụng đỏ được thụ tinh.

Piranha bột 1 tuần tuổi.

Piranha lứa 1 tháng tuổi.

Hầu hết các báo cáo về sinh sản của cá piranha trong bể nuôi là ở loài Pygocentrus nattereri, có thể là do tính dể thích nghi nhất của chúng trong số tất cả cá piranha trên thị trường. Sự sinh sản đòi hỏi một bể nuôi khá to (khoảng từ 500 đến 1000 lít). Việc bắt cặp diễn ra khá là thô bạo, do đó trong giai đoạn này nhất thiết phải theo dỏi cá đề phòng chúng làm tổn thương nhau. Vì loài này không có sự khác nhau rõ rệt đáng tin cậy nào giữa trống và mái, nên người ta luôn nuôi chúng ở số nhiều để chúng bắt cặp một cách tự nhiên. Sau khi quan sát thấy cặp cá chuẩn bị làm tổ, người nuôi sẽ dời cặp cá sang một hồ khác.

Cá đẻ một lần từ vài trăm đến vài ngàn trứng. Cá trống hầu như làm hết các công việc bảo vệ và chăm sóc trứng, và thường là sẽ đuổi cá mái đi ngay sau khi đẻ xong. Trứng sẽ nở trong vài ngày, nhưng không nên cho cá bột ăn gì cho tới khi túi noãn hoàn của chúng được tiêu hết. Sau khi cá bột đã tiêu hết noãn hoàn, bắt đầu cho chúng ăn thức ăn sống như tôm biển artemia. Cá bột có thể ăn thịt đồng loại nên tốt nhất là tách chúng ra theo size khi chúng lớn dần.

Điều kiện bể nuôi

Cá piranha không khó nuôi miễn là ta đáp ứng cho nó một số điều cơ bản sau đây. Trước khi bắt đầu, bạn cần quyết định xem sẽ nuôi một bầy hay chỉ một con. Tất cả loài Pygocentrus và một vài loài Serrasalmus có thể nuôi thành từng nhóm không dưới 4 con khá tốt nhưng tốt nhất là nuôi ít nhất 6 con. Mặc dù trong thiên nhiên hoang dã chúng sống theo bầy đàn, nhưng ở bể nuôi nếu chỉ có 2 hoặc 3 con, chúng có khuynh hướng gây hấn lẫn nhau và chẳng chóng thì chầy rồi thì cũng sẽ chỉ còn mỗi một con mạnh nhất. Mặt khác, dù gì đi nữa thì cá trưởng thành Catoprion, Pristobrycon, Pygopristis và đa số Serrasalmus cũng không thể sống chung trong một bể nuôi, vì thế bạn nên nuôi chúng riêng lẻ.

Giống như những loài cá ăn thịt to lớn khác, piranha cần không gian rộng rãi và hệ thống lọc tương đối quy mô. Một nguyên tắc được mọi người công nhận là không nuôi dưới 75 lít nước một con piranha, có nghĩa là để nuôi một nhóm 6 con piranha bụng đỏ bạn nên có một bể nuôi tối thiểu phải đạt 450 lít. Hệ thống lọc đủ khả năng xoay vòng khối lượng nước trong bể không dưới 6 lần một giờ. Nói cách khác, bể 450 lít cần lắp đặt một máy lọc với năng suất nước xoay tua là 2700 lít một giờ.

Vì khu vực sống của piranha là những bờ sông đầy cây cỏ um tùm, vậy tốt nhất nên trồng vào bể nuôi thật nhiều cây thủy sinh. Ngoài ra, piranha cũng không thích ánh sáng chói chang, bạn có thể sử dụng các loại cây bằng nhựa, cao tới miệng hồ để chúng đan xen tạo ra bóng râm cho cá. Tuy nhiên, nếu bạn thích chơi cây thật, hãy chọn những cây có tốc độ phát triển nhanh như Vallisneria vì loại cây này sẽ nhanh chóng phủ lấy bề mặt bể nuôi nhưng cũng sẽ bị một số thiệt hại do piranha cảm thấy thích ăn chúng.

Các tiêu chuẩn hóa học của nước nhìn chung không quan trọng. Trong thiên nhiên, piranha được tìm thấy trong môi trường từ hơi axít đến trung tính, nước hơi mềm, nhưng nước kiềm và cứng vùng phía Nam nước Anh cũng chẳng gây cho piranha một vấn đề cụ thể nào. Thế nhưng, chất lượng nước lại quan trọng. Ngoài việc lọc đủ như mô tả ở trên, hàng tuần nên thay 50% nước, và không nên cho cá ăn quá no. Piranha rất nhạy cảm với nồng độ oxy thấp. Không để nhiệt độ hồ quá ấm, khoảng từ 24 đến 26 độ C là vừa, vào mùa hè nếu cần có thể sử dụng thêm quạt để làm mát. Và đừng bao giờ nuôi piranha quá số lượng cho phép.


Piranha rõ ràng không phải là một loài cá cộng đồng, nhưng cũng không nên nuôi chung 2 loài khác nhau với nhau bởi vì loài lớn và mạnh hơn sẽ ăn hiếp (đôi khi thịt luôn) loài yếu hơn. Đôi lúc có vài người nuôi chúng chung với cá mèo giáp sắt to, chẳng hạn như plec, nhưng điều này không được khuyến khích.

Chắc cũng không cần phải nhắc lại rằng piranha là một loài vật tiềm ẩn nguy hiểm. Chúng sẽ cắn bạn thực sự khi chúng cảm thấy sợ hải. Bạn phải luôn đề phòng khi bạn làm việc trong bể, như chùi rửa chẳng hạn, có thể dùng một lưới to để giới hạn chúng trong một góc hồ. Piranha đặc biệt nguy hiểm khi chúng nhảy ra khỏi bể nuôi, và chúng thường làm thế khi bị hoảng hốt. Trong lúc quẩy đập, rất dể dẫn đến việc chúng cắn người nuôi. Khi gặp trường hợp này, bạn nên dùng một cây vợt dầy, cán dài, lưới ướt để bảo vệ chính bạn và đem cá trở về bể nuôi một cách an toàn.

Chế độ ăn uống

Một trong những hiểu lầm thường gặp nhất khi nuôi piranha là người ta cho rằng chúng chỉ ăn mồi sống, đặc biệt là cá. Thực ra, chúng là loài dể ăn và ăn tạp hơn vậy nhiều, thực tế cho thấy chúng có thể ăn được tất cả các loại thực phẩm làm từ thịt và thực phẩm chế biến. Những con lớn rất thích thú ăn các loại cá trắng nhỏ, tôm, mực, con trai, còn những con nhỏ hơn sẽ xơi trùn hoặc ấu trùng sâu bọ.

Một khi đã ổn định, đa số piranha sẽ dể dàng chấp nhận loại thức ăn viên dành cho cá ăn thịt. Đừng bao giờ cho piranha ăn cá vàng và cá loài cá thuộc họ chép khác (chẳng hạn như cá tuế (minnow)). Ngoài việc là nguồn lây nhiểm vi khuẩn và ký sinh trùng, các loài cá họ chép còn chứa nhiều mở và enzym thiaminase sẽ làm vở vitamin B1 có thể gây ra những vấn đề nếu cho ăn trong một thời gian dài. Nên tránh cho cá ăn những thức ăn có chứa nhiều chất béo như thịt, thịt gà, phô mai v..v...

Vì ngoài thiên nhiên cá ăn cả cây cỏ, bạn cũng nên tập cho piranha ăn một số thực phẩm xanh, đậu, dưa chuột xắt khoanh hay thức ăn viên đóng hộp làm từ tảo đều rất tốt. Mặc dầu không thực tế lắm nếu cho piranha ăn bằng trái cây hay hạt như chúng có thể ăn trong môi trường sông lạch hoang dã, nhưng chúng cũng sẽ thích thú nếu bạn thử các loại hạt khô, như hạt hoa hướng dương chẳng hạn như là một sự thay đổi khẩu vị cho cá.

Cũng như đối với các loại cá ăn mồi sống khác, không nên cho piranha ăn quá độ. Cho ăn một lượng nhỏ mỗi ngày, và dọn sạch thức ăn thừa sau 5 phút.

Có gì ở Wildwoods

Các bạn quan tâm đến piranha, hãy ghé thăm Wildwoods, nhiều điều thú vị đang chờ bạn. Wildwoods còn có dịch vụ đặt hàng qua thư, do đó nếu bạn không có điều kiện đến tận nơi tại Enfield, hãy xem xét đặt hàng và Wildwoods sẽ chuyển cá đến các bạn bằng đường tàu.

Pygocentrus nattereri "siêu đỏ"

Nếu so với piranha bụng đỏ thông thường, thì "siêu đỏ" có một mảng đậm những chấm đen ở hai bên sườn và phần sắc đỏ rộng hơn ngang qua mắt và bụng. Chúng có thể đạt đến 30 cm trong môi trường nuôi nhốt. Là một loài cá phổ biến và dể thích nghi, "siêu đỏ" là loại piranha rất thích hợp với bể nuôi gia đình, đặc biệt là khi nuôi với số lượng tương đối, lý tưởng nhất là từ 6 con trở lên cho một bể nuôi.

Piranha răng thùy Pigopristis denticulata "Orinoco"

Thoạt nhìn thì loài này gần giống với piranha bụng đỏ, nhưng chúng có thể được phân biệt ngay lập tức bởi bộ răng rất khác thường. Loài piranha này có những cái vây màu đỏ bù lại với thân toàn màu bạc điểm bởi vô số những chấm đen nhỏ. Đây là loài nhỏ nhất trong số các loài piranha, ngoài thiên nhiên chúng chỉ đạt kích thước tối đa là 20cm, còn trong điều kiện bể nuôi thì chúng còn nhỏ hơn nữa. Loài piranha này ăn cả vảy và vây của những con cá to hơn nhưng bơi lội chậm chạp. Bạn có thể nuôi chúng một mình riêng biệt hoặc nuôi từng nhóm 6 con hoặc nhiều hơn. Là một loài piranha thú vị, nhưng hiếm gặp ngoài thiên nhiên, và càng hiếm thấy trên thị trường cá cảnh.

Pristobrycon striolatus

Là một loài piranha nhỏ khác và là một trong số những loài cá ăn tạp nhất, loài này dường như chỉ ăn chủ yếu là hạt, chúng cũng ăn vây cá khác nhưng với mức độ ít hơn. Loài piranha này khá đẹp với thân hình màu bạc và một vùng đỏ kéo dài từ phía sau hàm dưới ra đến tận vây hậu môn. Phần rìa của vây đuôi có màu xám đậm. Rõ ràng, đây là một loại piranha thích sống cô độc trong thiên nhiên, vậy bạn nên nuôi chúng riêng lẻ trong bể nuôi là tốt nhất.

Serrasalmus humeralis "Xingu" Pirambeba

Đây là loài có kích cở trung bình được phân biệt bằng một vệt đen dài trên vây ức. Hàm dưới và nắp mang có màu vàng cam còn thân màu bạc. Là một trong những loài piranha ăn thịt hoàn toàn, thức ăn chính của chúng là cá nhỏ và đa dạng sinh vật đáy không xương sống. Điều kiện chăm sóc cơ bản tương tự như piranha bụng đỏ, thích hợp nuôi với số lượng tương đối nhiều.

Serrasalmus "Guyana đen"

Là một loại Serrasalmus rhombeus, một trong những loài piranha lớn nhất, có thể đạt tới 45 cm chiều dài và 30 cm vòng thân cá nơi to nhất. Nếu so với những loài piranha khác, Serrasalmus rhombeus phát triển khá chậm, và được cho là tương tự như loài "Guyana đen". Điều kiện chăm sóc giống như với piranha bụng đỏ, nhưng dĩ nhiên cần phải có bể nuôi to cho cá trưởng thành. Màu sắc của Serrasalmus rhombeus cũng muôn màu muôn vẽ tùy thuộc vào nơi chúng sinh sống, từ màu bạc khói đến màu đen xỉn. Serrasalmus "Guyana đen" đúng như tên gọi, là một trong những loại có màu tối xẩm nhất. Cá có viền đuôi trong suốt. Serrasalmus rhombeus là loài ăn thịt cơ hội, con mồi của chúng từ động vật có vú, thằn lằn cũng như các loại cá thông thường và động vật không xương sống. Trong khi cá nhỏ khá nhút nhát và sống thành từng bầy nhỏ, cá trưởng thành có khuynh hướng cô lập hơn và hung hăng với nhau hơn khi sống trong môi trường nhân tạo. Vậy nên tốt nhất nên nuôi loại này từng cá thể một.

Serrasalmus Piranha vàng lưng gù

Thêm một loại piranha cở trung nữa với đặc điểm là có màu vàng sáng vùng mặt và bụng. Rìa đuôi có màu xám sẩm. Cá to nhất được khoảng 20cm, nhưng cá trong môi trường nuôi nhốt bao giờ cũng nhỏ hơn cá sống ngoài thiên nhiên. Nếu điều kiện chăm sóc tốt, loài piranha dể thích nghi và đẹp mắt này sẽ là một đề tài hấp dẫn trong bể nuôi gia đình. Cách nuôi giống như piranha bụng đỏ, nhưng bởi vì chúng hơi gay hấn nên tốt nhất là nên nuôi từng con một.

Serrasalmus marginatus

Là một trong những loài piranha đẹp nhất, loài này có vẻ ngoài hơi giống với Serrasalmus spilopleura, nhưng nhỏ hơn một chút đạt khoảng 22cm. Thân có dạng hình thoi rất rõ, màu bạc và được điểm bởi những chấm đen nhỏ. Vây có màu sặc sở; vây lưng, vây mở và vây hậu môn vàng phết đỏ ở mép, vây đuôi chẻ vào khá sâu cũng màu vàng và có màu đen ở mép. Đây là loài cơ hội sống cô lập thích ăn vảy và vây của cá khác. So với các loài piranha khác, chúng hơi khác thường vì chuộng sống trong một khu vực nhất định hơn là rày đây mai đó. Serrasalmus marginatus cực kỳ hiếu chiến nên rất khó nuôi thành bầy, cho dù chúng được sinh ra từ những ao hoặc bể nuôi công cộng.